Tọa lạc giữa hai quả núi thuộc thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước và cách trung tâm TP. Phan Rang – Tháp Chàm khoảng 20km về hướng Tây Nam. Tháp Po Rome Ninh Thuận là công trình kiến trúc độc đáo cuối cùng được người Chăm xưa xây dựng trước khi mất quyền tự chủ. Đây đồng thời là nơi gắn liền với một vị vua tài ba có cuộc hôn nhân lịch sử với Đại Việt sau vua Chế Mân (Jaya Simhavarman III).

Đôi nét về tháp Po Rome Ninh Thuận – Công trình cuối cùng trên dải đất miền Trung

Po Rome là tên gọi của một vị vua Champa đồng thời là tên gọi của một cụm đền tháp Chăm nổi tiếng tại Ninh Thuận. Toàn thể công trình được người Chăm xưa xây theo phong cách hậu Bình Định – thời kỳ muộn, được các nhà nghiên cứu đánh giá là bản sao không hoàn hảo của đền tháp Po Klong Garai (Tk XIII – XIV). Đặc biệt, đây là khu đến cuối cùng của người Chăm tại Pandurang trước khi Champa mất quyền tự chủ.

Quan sát  trên bản đồ du lịch Ninh Thuận, tháp Po Rome tọa lạc giữa hai quả núi thấp thuộc thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, cách trung tâm TP. Phan Rang – Tháp Chàm khoảng hơn 14km về hướng Nam.

Theo ghi chép trong cuốn “Tháp cổ Champa” của PGS.TS Ngô Văn Doanh thì ngôi đền được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII. Mục đích xây dựng ngôi đền này là để thờ vua Po Rome – người có nhiều công lao với dân tộc, khi mất được nhân dân hóa thần. Đặc biệt,  vua Po Rome là vị vua Champa thứ hai có cuộc hôn nhân với công chúa Đại Việt (Công Nữ Ngọc Hoa – Ái nữ của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên)

Trải qua bao biến cố thăng trầm cùng thời gian, ngôi đền đến nay vẫn còn nguyên vẹn, là nơi đóng vai trò quan trọng trong đời sống, văn hóa, tín ngưỡng của người Chăm Ninh Thuận nói chung và cộng đồng Chăm theo tín ngưỡng Bàlamôn giáo nói riêng.

Thể hiện cho điều này, hàng năm đền tháp là nơi diễn ra nhiều nghi thức, lễ hội quan trọng như lễ Cầu Đảo (tiếng Chăm gọi là “𝐘𝐮𝐞𝐫 𝐲𝐚𝐧𝐠”, tổ chức vào tháng 4 Chăm lịch), lễ hội Katê (“𝐌𝐛𝐞𝐧𝐠 𝐊𝐚𝐭𝐞” diễn ra vào cuối tháng 6 đầu tháng 7 Chăm lịch), lễ cúng Mẹ xứ sở Po Yang Inư Nagar (“𝐂𝐚𝐦𝐛𝐮𝐫”, tháng 9 Chăm lịch), … hay lễ mở Cửa tháp (“𝐏𝐞𝐡 𝐌𝐛𝐞𝐧𝐠 𝐘𝐚𝐧𝐠”, tháng 11 Chăm lịch).

Ngày 31 tháng 8 năm 1992, Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch) công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật tháp.

Tổng thể kiến trúc nghệ thuật tháp Po Rome Ninh Thuận 

Có thể nói, tháp Po Rome Ninh Thuận là một công trình kiến trúc còn nguyên vẹn nhất trong tất cả công trình kiến trúc tháp được người Chăm xưa xây dựng. Đây cũng là công trình có tuổi đời nhỏ nhất trong tất cả công trình kiến trúc tháp. Đặc biệt là sự gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp vua Po Rome – vị vua độc lập cuối cùng trong lịch sử Champa. 

Về tổng thể kiến trúc, tháp  Po Rome công trình kiến trúc bằng gạch gồm hai ngôi tháp (tháp chính & tháp phụ) và một cái miếu nhỏ. Trong đó, tháp Chính là nơi thờ phượng vua Po Rome và hoàng hậu 𝐏𝐨 𝐁𝐢𝐚 𝐒𝐚𝐧𝐜𝐚𝐧, được xây dựng theo cấu trúc của ngôi tháp Chính trong khu đền tháp Po Klong Garai. Tháp còn lại là tháp phụ thờ hoàng hậu 𝐏𝐫𝐚 𝐒𝐮𝐜𝐢𝐡, đặc biệt gần tháp phụ còn là khu mộ táng của vua Po Rome.

Điểm nhấn của cả công trình này chủ yếu tập trung hết vào ngôi tháp chính. Chi tiết, ngôi tháp cao khoảng 8m, cạnh đáy rộng gần 8m. Tháp có mặt chính quay về hướng Đông, trên cửa chính có các tầng hình vòng cung, dưới các hình vòng cung là hình tượng thánh Siva và hình ngọn lửa. Cửa chính ra vào quay mặt về hướng Đông, ở các cửa giả có hình các vị thần bằng đá trong tư thế ngồi, khuôn mặt các vị thần mang đậm nét bản địa.

Về phần mái của ngôi tháp thì có ba tầng, mỗi tầng có 4 tháp góc, trên đỉnh mỗi tháp góc có trang trí búp sen bằng đá và hình ngọn lửa. Trong mỗi hốc giả là hình ảnh một vị thần hộ pháp đang ngồi chắp tay trong tư thế cầu nguyện. Từ cổng chính đi vào nhìn bên trái là tượng bò thần Nandin, vật cưỡi của thần lửa Siva.

Trong quá trình nghiên cứu và đánh giá của nhà khoa học: “Tháp Po Rome là công trình kiến trúc lớn, nhưng nếu so với các tháp cổ hơn hiện còn thì tháp Po Rome quả là thô và nghèo nàn. Điều này thể hiện rất rõ qua hình dáng và kích thước của tháp. Nội thất bên trong là bài trí đơn giản của tượng thờ vua Po Rome cao 1,2m được tạc từ 𝐋𝐢𝐧𝐠𝐚 8 tay đặt trên một bệ gỗ. Gần với tượng vua Po Rome là tượng bán nữ thần hoàng hậu 𝐏𝐨 𝐁𝐢𝐚 𝐒𝐚𝐧𝐜𝐚𝐧 cao khoảng 0,75m.”

Trải qua hơn 300 năm hình thành và tồn tại với thời gian. Đến nay, khu đền tháp Po Rome vẫn ánh lên vẻ đẹp tuyệt hảo của lối phong cách hậu Bình Định – thời kỳ Muộn, để lại một giá trị to lớn về mặt văn hóa và lịch sử dân tộc.

Tuy được các nhà nghiên cứu đánh giá là bản sao không hoàn hảo của cụm đền tháp Po Klong Garai do được xây dựng trong thời kỳ không còn tự chủ và xây dựng. Thế nhưng qua  đó luôn thấy được sự tài tình của người Chăm trong việc tạo nên những công trình kiến trúc nghệ thuật bí ẩn vượt thời gian mà đến nay vẫn chưa có lời giải.

Những ghi chép về vua Po Rome – Vị vua độc lập cuối cùng của Champa

Cho đến nay, những ghi chép về sự xuất thân của vua Po Rome vẫn còn là một vấn đề tranh luận. Theo tương truyền, vua Po Rome tên thật là 𝐉𝐚 𝐊𝐚 𝐓𝐡𝐚𝐮𝐭, biệt danh 𝐂𝐡𝐞𝐢 – 𝐬𝐢𝐭, sinh ở làng Tường Loan (𝐏𝐚𝐥𝐞𝐢 𝐏𝐚 – 𝐀𝐮𝐭), nay là xóm đạo Thiên Chúa Hòa Thuận của huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Tương truyền, Ja Ka Thaut xuất thân từ một gia đình nông dân thấp kém, cha và mẹ đều là người gốc Chu Ru.

Dẫu là vậy, nhưng chàng luôn nổi tiếng khắp vùng là người thông minh đĩnh ngộ, tài năng xuất chúng, đặc biệt là tướng hình thể hiện rõ chân mệnh thiên tử trong tương lai. Về sau, với tài năng xuất chúng, Ja Ka Thaut đã lọt vào mắt xanh của công chúa Po bia Thơn Chơn (con gái vua Chăm Islam Po Mưh Taha). Hai người nên duyên, Ja Ka Thaut trở thành phò mã và được vua Po Mưh Taha truyền vị khi tuổi về già.

Một truyền thuyết khác thì cho rằng, mẹ của Po Rome là một hoàng hậu Chăm nhưng lại kết thân với người Churu. Chính vì điều này mà thân nhân dòng tộc và cả xóm làng không chấp nhận mối tình này nên đã đuổi gia đình Po Rome đến một cánh đồng ở 𝐏𝐚𝐥𝐞𝐢 𝐁𝐡𝐚𝐧 (Vụ Bổn – Phan Rang). Điều này được minh chứng sau khi lên làm vua cai quản Champa, Po Rome đã cho lập miếu ở cánh đồng này và người dân Chăm gọi miếu này là 𝐓𝐡𝐚𝐧𝐠 𝐏𝐨 𝐑𝐨𝐦𝐞 𝐓𝐡𝐚𝐮𝐤.

Qua hai tương tuyền, dù là tương truyền nào thì một điều được nhiều nhà sử học nhận định, Po Rome là người Churu. Minh chứng cho điều này, trong cuốn “Lịch sử Chiêm Thành Suy Thoái của tác giả Trần Gia Phụng”, ông đã xác định rõ ràng về nguồn gốc của vua Po Rome.

Cùng với đó là sự đồn đại của một trí thức Chăm thời đó được các trí ghi chép lại: ở vào thời Po Mưh Taha đã có một trí thức Chăm là ông Bilan làng Palei Grauk (người làng Trì Đức, Phan Lý) thuật lại câu chuyện về người dòng Churu nhân duyên cùng công chúa Po Bia Thơn Chơn (con gái vua Chăm Islam Po Mưh Taha) và việc nhường ngôi cho nghĩa tế.

Sự tương truyền về thân thế của vua Po Rome được làm rõ hơn qua các tài liệu nghiên cứu của các nhà sử học dựa trên các bia ký, thư tịch cổ và biên chép của người Chăm. Đó là việc Po Rome chính thức được vua Chăm Islam Po Mưh Taha nhường ngôi cai trị Champa vào năm 1627 sau khi kết hôn với công chúa Po Bia Thơn Chơn, sau là hoàng hậu chánh thất Bia Than Cih.

Trong khoảng thời gian sinh sống với hoàng hậu 𝐁𝐢𝐚 𝐓𝐡𝐚𝐧 𝐂𝐢𝐡, do hoàng hậu hiếm muộn nên vua Po Rome đã lấy thêm người vợ thứ hai người Êđê là 𝐁𝐢𝐚 𝐓𝐡𝐚𝐧 𝐂𝐢𝐡

Vương quốc Panduranga và những thay đổi thời vua Po Rome

Vừa lên nắm quyền cai trị, vua Po Rome đã có những chính sách thay đổi để phát triển đất nước. Ngài bắt đầu cũng cố và mở rộng ngoại giao với các nước lân bang như Chân Lạp, Đại Việt, Cao Miên, … và liên kết chặt chẽ với các nước có liên hệ mật thiết với Champa từ trước là Indonesia và Malaysia. Sự thay đổi này đã cho một kết quả bất ngờ khi từ một vương quốc dần thu hẹp lãnh thổ do chiến tranh liên miên với Đại Việt, Chân Lạp,  Xiêm La, … nay trở thành mối lo ngại.

Cũng trong thời gian này, do Hoàng hậu Po Bia Thơn Chơn hiếm muộn nên vua Po Rome đã cưới người vợ thứ hai là thứ hậu 𝐁𝐢𝐚 𝐓𝐡𝐚𝐧 𝐂𝐚𝐧 – người gốc Êđê. Tại phía Bắc Panduranga, tình hình giữa hai tập đoàn chúa Trịnh đàng ngoài và chúa Nguyễn đàng trong có nhiều chuyển biến phức tạp. Hai bên vẫn thường xuyên giao chiến nhưng không thể phân thắng bại. Đặc biệt, sau đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng, đến đời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã chính thức xưng vương.

Khác với những đời Chúa trước, chúa Sãi luôn suy tính về việc mở rộng bờ cõi về phương Nam. Thế nhưng, Champa dưới thời vua Po Rome rất hưng thịnh, lại thêm thường xuyên đụng độ với tập đoàn chúa Trịnh ở đàng ngoài. Vì vậy, chúa Sãi đã đưa ra một quyết sách là gả các ái nữ của mình cho vua Champa để thắt chặt tình hữu nghị.

Tại 𝐏𝐚𝐧𝐝𝐮𝐫𝐚𝐧𝐠𝐚 (Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay), những cải cách của vua Po Rome tuy đạt nhiều kết quả to lớn nhưng ông cũng thừa biết, mọi thứ mà tập đoàn chúa Nguyễn đàng trong thực hiện chủ đích là đang chuẩn bị lực lượng và tập trung vào việc phát triển kinh tế. Thế nhưng, việc 𝐂𝐡𝐚𝐦𝐩𝐚 kẹt giữa Đại Việt và Chân Lạp, thêm vào đó mối nguy của Xiêm La luôn đặt Champa vào tình thế bất an bất cứ lúc nào.

Tuy nhiên, mọi việc bỗng trở nên khác khi trong một lần, công nữ Ngọc Khoa (con gái thứ 3 của Chúa Sãi Nguyễn Phúc Vương) cùng phái đoàn vào Champa buôn bán. Với sắc đẹp tuyệt trần, ngay từ lần đầu gặp, vua Po Rome đã bị cuốn hút. Nhận thấy được điều này, Sãi Vương đã nghĩ đến việc thắt chặt tình hữu nghị hai nước bằng việc gả Ngọc Khoa cho vua Po Rome.

Thế là không chần chừng, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã gửi lời đề nghị này cho vua Po Rome. Và khi mới chỉ nhận được tin từ sứ giả, hoàng tộc và nhiều tướng lĩnh Champa không đồng tình. Ai cũng khuyên vua Po Rome không nên thực hiện. Tuy nhiên, trước tình thế phức hiện tại, thêm phần bị sắc đẹp Ngọc Khoa chiếm lĩnh suy nghĩ nên vua Po Rome đã đồng ý. 

Năm 𝟏𝟔𝟑𝟏, cuộc hôn nhân mang tính lịch sử giữa Champa và tập đoàn chúa Nguyễn đàng trong chính thức  diễn ra. Công nữ Ngọc Khoa được gả về Champa cho vua Po Rome và chính thức trở thành thứ hậu thứ hai gọi 𝐁𝐢𝐚 𝐔𝐭 (thứ hậu Yuôn)

Vua Po  Rome và cuộc hôn nhân lịch sử với Công nữ Ngọc Hoa

Trước cuộc hôn ước này, Đại Việt và Chiêm Thành (Champa nay) đã diễn ra một cuộc hôn ước vào thời nhà Trần năm 1306 giữa vua Chế Mân (𝐉𝐚𝐲𝐚 𝐒𝐢𝐦𝐡𝐚𝐯𝐚𝐫𝐦𝐚𝐧 𝐈𝐈𝐈) và Huyền Trân Công Chúa.

Giao ước của cuộc hôn nhân mang tính lịch sử này được vua Trần Nhân Tông hứa hẹn trong chuyến du ngoạn thăm Chiêm Thành trong khoảng thời gian 9 tháng đầu năm 1301. Đáp lại hôn ước với Đại Việt, 𝐉𝐚𝐲𝐚 𝐒𝐢𝐦𝐡𝐚𝐯𝐚𝐫𝐦𝐚𝐧 𝐈𝐈𝐈 đã cắt châu Ô và châu Lý làm sính lễ. Về sau, hai châu này được đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu (nay là vùng đất từ tỉnh Thừa Thiên – Huế đến bờ sông Thạch Hãn của tỉnh Quảng Trị).

Trải qua bao thăng trầm lịch sử, đến nay cuộc hôn nhân mang tính chính trị của vua Jaya Simhavarman III và Huyền Trân Công Chúa vẫn còn nhiều tranh cãi lớn. Đến thời vua Po Rome cũng vậy, trước tình hình chính trị đang gặp nhiều rắc rối của chúa Nguyễn, trước thì phải đối đầu với chúa Trịnh ở đàng ngoài, sau thì sợ Champa đánh úp, lại thêm mối lo ở Chân Lạp.

Để ổn định, trong vòng 10 năm, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã quyết định gả hai nàng công nữ cho hai vua của Champa và Chân Lập. Cụ thể, cuộc hôn ước đầu tiên của công nữ Ngọc Vạn và vua Chân Lạp 𝐂𝐡𝐞𝐲 𝐂𝐡𝐞𝐭𝐭𝐚 𝐈𝐈 vào năm 1620. Và cuộc hôn nhân thứ hai vào năm 1631 giữa công nữ Ngọc Khoa và vua Chăm Po Rome.

Cả hai cuộc hôn nhân này đều mong muốn mối giao bang ngày càng tốt đẹp. Tuy nhiên, đến thời chúa Nguyễn Phúc Tần, từ mối giao bang hòa hữu qua cuộc hôn nhân với Champa đã trở thành cuộc chiến quyết định số mệnh của vương quốc này. Với ý chí khôi phục và đòi lại những vùng lãnh thổ của Champa đã mất vào tay Đại Việt, vua Po Rome đã phát động một cuộc chiến trên quy mô lớn. 

Sử kể, Po Rome là vị vua có tài thao lược và ngoại giao rất tốt. Khi được vua Chăm Islam Po Muh Taha nhường ngôi vào năm 1627, Po Rome đã có nhiều chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.

Minh chứng cho điều này, Po Rome rất chú trọng vấn đề ngoại giao với nhiều nước có liên hệ với Champa như Indonesia, Malaysia … không biết mục đích của ngài có phải đi cầu viện hay không? Thế nhưng sự chú trọng ngoại giao này nói lên vua Po Rome là người có tầm nhìn lớn trong việc củng cố tình hữu nghị với các nước lân bang.

Khi thấy đã lớn mạnh, cũng đến lúc Po Rome thực hiện ý chí đồ lại lãnh thổ đã mất từ tay Đại Việt. Tuy nhiên, lúc này chúa Nguyễn cai trị đàng Trong quá mạnh và kết quả cho mọi sự cố gắng của Champa và Po Rome là mọi thứ chấm hết vào năm 1653 khi Nguyễn Phúc Tần sai cai cơ Hùng Lộc mang 3,000 quân đánh chiếm vùng đất còn lại của Champa từ Nha Trang đến Sông Phan Rang. 

Cuộc chiến kết thúc, vua Po Rome đã thất bại trong trận chiến này. Ngài bị bắt và nhốt vào rọ, bỏ đói bỏ khát trên đường đưa về Huế. Để giữ hồn khí của một đất minh quân, vua Po Rome đã tự kết liễu bản thân mình. 

Cảm phục và ghi ơn đến vị vua anh minh, tài ba của đất nước. Nhân dân Champa đã xây dựng một đền tháp mang tên ngài. Là nơi thờ cúng linh hồn, hóa thân vị vua có nhiều công lao trong cuộc đời trị vị đất nước của mình.

Trên đây là những thông tin về cụm di tích tháp Po Rome Ninh Thuận. Hy vọng với những thông tin này sẽ giúp bạn hiểu hơn về một công trình kiến trúc nghệ thuật tháp nổi tiếng được người Chăm xưa xây dựng cách đây hơn 300 năm. Chúc bạn có chuyến tham quan và trải nghiệm vui vẻ bên người thân và bạn bè.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *